Giáo sư Guy Vallancien, trưởng khoa niệu của Institut mutualiste Montsouris giải thích những lợi ích của điều trị bằng siêu âm, ngày nay được thực hiện bởi hệ thống robot hóa, được điều khiển bởi máy vi tính.
Hỏi : Tần số gây bệnh của ung thư tiền liệt tuyến (cancer de la prostate) hiện nay?
G.S Guy Vallancien : Ung thư này ngày nay đã trở nên thường xảy ra hơn cả : người ta thống kê được 62.000 trường hợp mới mỗi năm ở Pháp (so với 50.000 ung thư vú) ! và càng ngày càng thường xảy ra ở những người dưới 60 tuổi.
Hỏi: Ông có thể nhắc lại cho chúng tôi những giai đoạn khác nhau của căn bệnh ung thư này?
G.S G.V. Đối với các ung thư khu trú, chúng ta có nhiều phép điều trị : cắt bỏ tiền liệt tuyến bằng một kỹ thuật nội soi vi xâm nhập (une technique mini-invasive coelioscopique) ; curiethérapie với cắm các hạt phóng xạ (grains radioactifs) trong tuyến tiền liệt, phóng xạ trị liệu ngoài (radiothérapie externe) và kỹ thuật siêu âm điều tiêu (technique des ultrasons focalisés). Những phép điều trị khác đang còn trong thử nghiệm, nhưng với một thời gian nhìn lại chưa được đầy đủ. Khi ung thư, tại chỗ, đã vượt khỏi tiền liệt tuyến, phóng xạ trị liệu pháp là điều trị chuẩn, nhưng phẫu thuật, trong một vài trường hợp, còn có thể có hiệu quả. Một điều trị kháng hormone (thérapie anti-hormonale) thường được liên kết.
Trong những trường hợp ung thư di căn, điều trị vẫn là liệu pháp hormone (hormonethérapie), được tiêm dưới da, trong cơ hay cả bằng đường miệng. Hóa học trị liệu pháp bắt đầu chứng tỏ một hiệu quả nào đó với họ các taxols .
Tất cả các điều trị này, không có ngoại lệ, có nguy cơ mang lại những tác dụng phụ, như bất lực hay són tiểu, trong một số các trường hợp, ngày nay ngày càng ít.
Hỏi : Ông có thể giải thích nguyên tắc của liệu pháp vi xâm nhập cổ điển bằng siêu âm (la thérapie mini-invasive par ultrasons) ?
G.S Guy Vallancien : Phép trị liệu này đã được hiệu chính ở Lyon, trong khoa của G.S Dubermand, bởi B.S Albert Gelet (cộng tác với nhóm Inserm U556). Nguyên tắc của liệu pháp này (thời gian từ một giờ rưởi đến hai giờ và được thực hiện dưới gây mê tại chỗ hay tổng quát) là sử dụng các siêu âm có tần số cao để làm nóng và tiêu diệt các mô ung thư. Phương thức cổ điển gồm hai giai đoạn.Trong giai đoạn đầu, phẫu thuật viên đưa một ống thông vào trực tràng của bệnh nhân để xác định, nhờ một màn siêu âm (écran échographique), những giới hạn của tuyến tiền liệt và thể tích cần điều trị. Sau đó, một ống thông khác, lần này gồm có một máy phát siêu âm có cường độ rất cao, tập trung nhiệt (từ 80 đến 100 độ C) trên một vùng 20 mm chiều cao và 2 mm chiều rộng, đảm bảo điều trị.Với phương thức cổ điển này, suốt trong quá trình can thiệp, động tác của thầy thuốc khoa niệu được hướng dẫn trên màn ảnh , nhờ một hệ thống hình ảnh ghép với máy phát siêu âm. Một ống thông đường tiểu sau đó được đặt trong 24 đến 48 giờ, để tránh bí tiểu. Ngày sau khi ống thông được rút đi, bệnh nhân có thể rời bệnh viện. Kỹ thuật này, không đau đớn, cho phép bình phục rất nhanh chóng.
Hỏi : Điều trị mới bằng siêu âm với robot hóa là thế nào ?
G.S Guy Vallancien : Trước hết, chính cũng ống thông cho phép xác định bằng siêu âm vùng cần điều trị và sau đó, qua ống thông này làm hội tụ các chùm siêu âm có cường độ cao, nhằm nhắm mục tiêu các tế bào ung thư cần phá hủy. Với phương thức mới này, thể tích của tiền liệt tuyến được tái tạo theo 3 kích thước trên màn ảnh siêu âm. Thiết bị, được điều khiển bởi máy vi tính, thực hiện sự phá hủy các mô bị thương tổn với một độ chính xác từng milimet, gìn giữ các vùng chung quanh. Máy được sử dụng, Ablatherm, xê dịch một cách tự động : thầy thuốc khoa niệu sau khi đã xác định bằng marqueur, thể tích của tiền liệt tuyến cần điều trị, sẽ không còn có động tác gì khác để làm nữa. Phương thức mới này, rất đáng tin cậy, độc lập với sự khéo léo của nhà phẫu thuật.
Hỏi : Những ưu điểm của tiến bộ kỹ thuật này ?
G.S Guy Vallancien : Một tiến bộ đầu tiên là nhìn thấy phép điều trị đang được thực hiện.Tiến bộ khác : thầy thuốc khoa niệu thực hiện thao tác, nhờ sự chính xác cực kỳ và nhờ thời gian ngắn ngủi của các “ phát bắn ” siêu âm, đảm bảo điều trị theo nhu cầu (“ à la carte ”) ( thích nghi điều trị tùy theo sự lan rộng của ung thư).
Hỏi : Những kết quả thu được với kỹ thuật robot hóa này ?
G.S Guy Vallancien : Theo một công trình nghiên cứu được công bố trên “ European Urology ”, người ta thống kê được gần 80 trường hợp lành bệnh trong 5 năm. Các hậu quả tai hại của chứng són tiểu là thấp, và vấn đề bất lực tùy thuộc vào tình trạng sinh dục trước đây của bệnh nhân.Trong trường hợp tái phát, có thể lập lại điều trị, đây không phải là trường hợp đối với phóng xạ trị liệu pháp hay curie- thérapie.
Hỏi : Những chỉ định chính của phương pháp robot hóa mới nhất này?
G.S Guy Vallancien : Phương pháp này được chỉ định để điều trị các tuyến tiền liệt có thể tích trung bình hoặc nhỏ, dưới 50 cm3 ( nhưng với một phép điều trị bằng hormone tạm thời, thường có thể làm giảm thể tích của những tuyến tiền liệt lớn). Nói chung người ta dành phương thức điều trị này cho những người trên 70 tuổi, bởi vì ít hung bạo hơn ngoại khoa và curiethérapie. Người ta cũng có thể dùng kỹ thuật này trong trường hợp phóng xạ trị liệu pháp bị thất bại.
—–
BS Hervé Baumert, trưởng khoa Niệu của nhóm bệnh viện Paris Saint-Joseph, giải thích những ưu điểm của kỹ thuật mới này
Hỏi : Trong những trường hợp nào, một can thiệp ngoại khoa được chỉ định để lấy đi một khối u của tuyến tiền liệt và những kỹ thuật thông thường được sử dụng là gì ?
BS Hervé Baumert : Người ta đề nghị một phẫu thuật trong những trường hợp ung thư khu trú ở tuyến tiền liệt (trong bao nang), nơi những bệnh nhân dưới 75 tuổi và có sức khỏe tổng quát tốt. Thường thường, hai kỹ thuật có thể được dự kiến : một kỹ thuật bằng ngoại khoa truyền thống, còn kỹ thuật kia bằng ngoại khoa soi ổ bụng (chirurgie coelioscopie).
Hỏi : Những protocole của hai kỹ thuật này là gì ?
BS Hervé Baumert : 1. Trong ngoại khoa cổ điển, phẫu thuật viên trước hết thực hiện một đường xẻ dọc dài 10 đến 15 cm dưới núm vú, rồi động tác phẫu thuật nhằm lấy đi toàn bộ tuyến tiền liệt và các túi tinh (vésicules séminales). Có thể cần phải lấy đi các hạch bạch huyết vùng lân cận để xét nghiệm chúng. Khi khối u đã đạt đến một kích thước nào đó, ta có thể cũng phải lấy ra một trong các dây thần kinh cương (nerfs érecteurs), thậm chí cả hai. 2. Trong ngoại khoa nội soi (chirurgie coelioscopie), ta không còn thực hiện nữa những đường xẻ rộng nhưng tạo những lỗ (ouverture) rất nhỏ 5-10 mm để đưa vào đó một minicamera và những vi dụng cụ ngoại khoa (microinstruments chirurgicaux). Nhà phẫu thuật mổ với cùng những động tác như được thực hiện trong ngoại khoa cổ điển. Phương pháp vi xâm nhập (méthode micro-invasive) này mang lại ít đau đớn hơn trong thời kỳ hậu phẫu, một thời gian nhập viện ngắn hơn và ít di chứng sẹo hơn.
Hỏi : Những kết quả của những phương pháp khác nhau này là gì ?
BS Hervé Baumert : Trên bình diện chữa lành bệnh, chúng đều giống nhau : 90% lành bệnh nếu ung thư rất được khu trú. Nhưng những kỹ thuật này có những điều bất tiện : cả hai có thể có những nguy cơ gây són tiểu (incontinence) và bất lực (impuissance) nếu phẫu thuật viên đã không có thể gìn giữ được các dây thần kinh cương. Các di chứng chủ yếu tùy thuộc vào kinh nghiệm của đội phẫu thuật và khả năng có thể bảo tồn những dây thần kinh này hay không.
Hỏi : Do đó phải tìm kiếm một kỹ thuật rất chính xác hạn chế các nguy cơ… Phương pháp mới ngoại khoa với sự hỗ trợ bởi robot (chirurgie par robot) là gì ?
BS Hervé Baumert : Phẫu thuật viên mổ từ một bàn chân qùy(console) được đặt bên cạnh bệnh nhân. Bàn chân quỳ này được trang bị bởi một màn ảnh (sẽ tái tạo nơi cần phẫu thuật theo 3 chiều không gian) và những bộ phận điều khiển bằng tay (commande manuelle), cho phép người mổ hướng rất chính xác các bàn tay của robot. Người máy (robot) này, được đặt giữa hai cẳng chân của bệnh nhân, được trang bị bởi hai hay 4 cánh tay (có ở đầu mỗi cánh tay những dụng cụ ngoại khoa nhỏ xíu và có khớp). Những động tác mổ y hệt với những động tác được thực hiện với kỹ thuật nội soi nhưng với một mức độ chính xác tốt hơn, có được là nhờ sự nối khớp của các dụng cụ (articulation des instruments), mà phẫu thuật viên có thể biến đổi góc trong lúc phẫu tích khối u. Những vi dụng cụ có khớp này (mini-instruments articulés), với mức độ cực kỳ khéo léo, có thể thích ứng hơn nhiều với cơ thể học của bệnh nhân. Mức độ chính xác được cải thiện cũng là nhờ nhìn được, theo 3 chiều không gian, phẫu trường được phóng đại : người mổ có thể phóng đại hay thu nhỏ (zoomer) theo ý muốn.
Hỏi : Những kết quả thu được với ngoại khoa với robot hỗ trợ là gì ?
BS Hervé Baumert : Cũng như đối với những kỹ thuật khác, những kết quả tùy thuộc vào trình độ khéo léo và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Ở Hoa Kỳ, kỹ thuật mới này đối với các ung thư tiền liệt tuyến đã trở thành ngoại khoa mẫu mực (chirurgie de référence) : 70% những cuộc mổ đã được thực hiện như thế. Kết quả : 90% được chữa lành và, với những nhóm phẫu thuật viên có kinh nghiệm nhất, 80% những bệnh nhân còn trẻ đã lấy lại được một khả năng sinh dục bình thường, vì các dây thần kinh cương đã được bảo tồn. 95% những người được mổ cũng đã có thể bảo tồn một khả năng tiểu tiện bình thường không bị són đái. Sự cải thiện này là do một mức độ chấn thương ít hơn, nhờ những dụng cụ được nối khớp của robot. Tuy nhiên, trong ngoại khoa cổ điển, một phẫu thuật viên rất có kinh nghiệm cũng có thể thu được những kết quả tốt như thế.
Theo PARIS MATCH