Menu Đóng

Rối loạn cương: Dấu hiệu bệnh lý mạch vành

Rối loạn cương là một bệnh lý khá phổ biến ở nam giới, với tần suất tăng theo tuổi.

Bệnh ảnh hưởng 5%-10% nam giới 40 tuổi và 40% – 60% nam giới 70 tuổi. Rối loạn cương không phải là một bệnh đe dọa tính mạng, nhưng sự hiện diện của nó có thể là một dấu hiệu đi trước các biểu hiện khác của các bệnh xơ vữa hệ thống, như bệnh mạch vành và bệnh mạch máu não.

 

Một nghiên cứu gần đây khảo sát mối quan hệ lâu dài giữa rối loạn cương và nguy cơ bệnh mạch vành ở những người đàn ông trên 40 tuổi với mục đích đánh giá tác động của yếu tố tuổi tác lên mối quan hệ này. Một nhóm người nam trong cộng đồng có bạn tình thường xuyên, không bị bệnh mạch vành được chọn ngẫu nhiên tầm soát rối loạn cương mỗi 2 năm trong 10 năm.

Bệnh mạch vành được xác định gồm các bệnh nhồi máu cơ tim, tử vong do tim mạch, bệnh mạch vành. Tỉ lệ rối loạn cương trong nhóm người tham gia nghiên cứu bao gồm: 2% trong nhóm 40-49 tuổi, 6% trong nhóm 50-59, 17% trong nhóm 60-69 và 39% trong nhóm trên 70 tuổi.

Ở người nam trẻ tuổi hơn (40-49 tuổi), nguy cơ tiến triển bệnh mạch vành ở nhóm bị rối loạn cương cao gấp 50 lần so với người không bị rối loạn cương trong vòng 10 năm kế tiếp. Chính vì vậy, nam giới trong nhóm tuổi càng trẻ có chẩn đoán rối loạn cương nên được tầm soát nguy cơ tim mạch và can thiệp khi cần thiết.

Bác sĩ Lê Đăng Khoa (Người Lao Động)

——–

Đọc thêm

Loạn năng cương (dysfonction érectile) là sự không có thể thường trực (hay ít nhất rất thường xảy ra) có được một sự cương cứng dương vật có hiệu quả và dài lâu (sexe mou). Đó là một thuật ngữ còn tương đối bị cấm kỵ, bởi vì đó là một tình huống mà một người đàn ông khó lòng chấp nhận được. Tuy nhiên chứng loạn năng cương này ảnh hưởng lên hơn 150 triệu người đàn ông trên thế giới, và ngay ở lứa tuổi 40. Tần số mắc bệnh tiếp tục gia tăng do sự lão hóa của dân số, nhưng không phải chỉ có vậy.

Cần minh định rõ: chức năng cương (fonction érectile) của giới tính nam nhằm làm cứng dương vật, được đảm bảo bởi sự làm đầy máu các thể hang và xốp (corps caverneux và spongieux) của dương vật (đúng là những mạch máu xốp ứ máu, éponges vasculaires gorgées de sang), nhờ sự giãn của những động mạch của dương vật. Sự co thắt đồng thời của các cơ ở đáy dương vật đè ép các tĩnh mạch, làm ngăn cản sự tháo xuất máu, và cứ như thế cho đến khi các cơ này được giãn ra. Hiện tượng này nằm dưới sự kiểm soát của thần kinh ngoại biên (các dây thần kinh phát xuất từ tủy sống) và trung tâm (não bộ).

Do đó ta có thể hiểu rằng loạn năng cương (dysfonction érectile) có thể có nhiều nguyên nhân : thần kinh và tâm lý, tiết niệu, do dùng thuốc, nhưng cũng có thể là nguyên nhân huyết quản, hoặc do bất thường của hệ tĩnh mạch, nhưng nhất là động mạch. Điều này giải thích tại sao loạn năng cương có thể thường hiện diện trong chứng xơ mỡ động mạch (artériosclérose) nặng và/hoặc kéo dài và tại sao chứng loạn năng này được làm dễ bởi bệnh đái đường, cao huyết áp, dyslipidémie (quá nhiều cholestérol và những chất mỡ xấu khác…), chứng béo phì và thuốc lá. Một công trình nghiên cứu mới đây đã tiết lộ rằng gần 50% những người đàn ông bị loạn năng cương không biết mối liên hệ này.

Do đó nếu các người đàn ông, kêu bị loạn năng cương, có một tần số mắc bệnh tim mạch lớn hơn và ngay cả một tý lệ tử vong cao hơn, và tỷ lệ này càng cao khi bất thường xuất hiện ở một lứa tuổi càng trẻ (trước 50 tuổi), điều này không phải là do loạn năng cương, mà thường do sự hiện diện những bất thường động mạch nghiêm trọng ẩn tàng, thường không được hay biết đến bởi người bệnh và không được nhận thấy bởi thầy thuốc của anh ta bởi vì còn ít triệu chứng.

Do đó để điều trị loạn cương, không phải chỉ giới hạn vào việc nhờ đến viên thuốc màu xanh bé nhỏ (Viagra) và/hoặc tiêm testostérone, đôi khi được kết hợp với sự thăm khám tâm lý và/hoặc một ý kiến của thầy thuốc niệu khoa. Tất cả điều này vả lại có thể hữu ích, nhưng ta cũng phải yêu cầu thầy thuốc gia đình của mình xác lập một bilan tim mạch hoàn chỉnh. Bilan này không chỉ giới hạn vào việc tìm kiếm một cách hệ thống tất cả các yếu tố nguy cơ sẽ phải được điều chỉnh thật sự và dài lâu, mà còn phải bao gồm một bilan kỹ càng về tình trạng của hệ mạch máu và tim.

Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh

Bài liên quan