Những điều cần thiết trong thực hành
Mang thai gây ra nhiều thay đổi trong cơ thể phụ nữ làm tăng khả năng mắc nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI). Những thay đổi về nội tiết tố và cơ học có thể thúc đẩy tình trạng ứ đọng nước tiểu và trào ngược bàng quang niệu quản. Những thay đổi này, cùng với niệu đạo vốn đã ngắn (khoảng 3-4 cm ở phụ nữ) và khó khăn trong vệ sinh do bụng bầu căng to, khiến UTI trở thành bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn phổ biến nhất trong thai kỳ.
Nhiễm trùng niệu không được điều trị trong thai kỳ có liên quan đến các nguy cơ cho cả thai nhi và người mẹ, bao gồm viêm bể thận, sinh non, trẻ nhẹ cân và tăng tỷ lệ tử vong chu sinh. Nhìn chung, bệnh nhân mang thai được coi là vật chủ của UTI bị suy giảm miễn dịch do những thay đổi về mặt sinh lý liên quan đến thai kỳ. Những thay đổi này làm tăng nguy cơ biến chứng nhiễm trùng nghiêm trọng từ nhiễm trùng đường tiết niệu có triệu chứng và không triệu chứng ngay cả ở phụ nữ mang thai khỏe mạnh.
Thuốc kháng sinh đường uống là phương pháp điều trị được lựa chọn cho tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu và viêm bàng quang không triệu chứng. Liệu trình điều trị tiêu chuẩn cho viêm bể thận là nhập viện và dùng kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Trong một số trường hợp, kháng sinh dự phòng được chỉ định (xem Điều trị). Bệnh nhân được điều trị ba đợt viêm bàng quang trở lên hoặc một đợt viêm bể thận trong thời kỳ mang thai nên tiếp tục dùng kháng sinh dự phòng hàng ngày trong suốt thời gian mang thai.
Chi phí y tế hàng năm cho UTI vượt quá 1 tỷ đô la. Mặc dù chi phí cụ thể cho tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc UTI không triệu chứng trong thai kỳ vẫn chưa được biết, nhưng việc sàng lọc các tình trạng này ở phụ nữ mang thai có hiệu quả về mặt chi phí, so với việc điều trị UTI và viêm bể thận mà không sàng lọc. Mục tiêu của nghiên cứu trong tương lai bao gồm nhắm mục tiêu đến các nhóm thu nhập thấp và phụ nữ ở các nước đang phát triển để sàng lọc và điều trị sớm, cũng như xác định xem có mối quan hệ nhân quả giữa UTI của mẹ và hậu quả thần kinh ở trẻ em hay không.
Các thông tin cơ bản:
UTI được định nghĩa là sự hiện diện của ít nhất 100.000 sinh vật trên một mililít nước tiểu ở bệnh nhân không có triệu chứng hoặc hơn 100 sinh vật/mL nước tiểu kèm theo mủ niệu (> 7 tế bào bạch cầu/mL) ở bệnh nhân có triệu chứng. Chẩn đoán UTI phải được hỗ trợ bởi kết quả nuôi cấy dương tính với tác nhân gây bệnh đường tiết niệu, đặc biệt ở những bệnh nhân có triệu chứng mơ hồ. [1]
Nhiễm khuẩn niệu không triệu chứng
Vi khuẩn niệu không triệu chứng thường được định nghĩa là sự hiện diện của hơn 100.000 sinh vật/mL trong 2 mẫu nước tiểu liên tiếp khi không có triệu chứng đã nêu. Nhiễm trùng niệu không triệu chứng không được điều trị là yếu tố nguy cơ gây viêm bàng quang cấp tính (40%) và viêm bể thận (25-30%) trong thai kỳ. Tình trạng này thường xảy ra vào đầu thai kỳ. Các yếu tố nguy cơ bao gồm nhiễm trùng đường tiết niệu trước đó, bệnh tiểu đường từ trước, sinh nhiều con và tình trạng kinh tế xã hội thấp.
Viêm bàng quang
Viêm bàng quang cấp tính chỉ liên quan đến đường tiết niệu dưới; đặc trưng là tình trạng viêm bàng quang do nguyên nhân do vi khuẩn hoặc không do vi khuẩn (ví dụ: nhiễm xạ hoặc nhiễm vi-rút). Viêm bàng quang cấp tính phát triển ở khoảng 1-2% bệnh nhân mang thai, trong đó 60% có kết quả sàng lọc ban đầu âm tính. Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm tiểu ra máu, tiểu khó, khó chịu trên xương mu, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và tiểu đêm. Những triệu chứng này thường khó phân biệt với những triệu chứng do chính thai kỳ gây ra.
Viêm bàng quang cấp tính có biến chứng do bệnh đường tiết niệu trên (tức là viêm bể thận) ở 15-50% trường hợp.
Viêm bể thận cấp
Viêm bể thận là biến chứng đường tiết niệu phổ biến nhất ở phụ nữ mang thai, xảy ra ở khoảng 0,5-2% trong số tất cả các trường hợp mang thai. Viêm bể thận cấp có đặc điểm là sốt, đau hông và đau nhức ngoài tình trạng nhiễm trùng niệu đáng kể. Các triệu chứng khác có thể bao gồm buồn nôn, nôn, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và tiểu khó. Hầu hết các trường hợp viêm bể thận xảy ra trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba.
Các yếu tố nguy cơ thúc đẩy nhiễm trùng đường tiết niệu phức tạp trong thai kỳ, bao gồm:
- Ức chế miễn dịch
- Tiền căn Đái tháo đường
- Thiếu máu hồng cầu hình liềm
- Hội chứng thần kinh Bàng quang
- Nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát hoặc dai dẳng trước khi mang thai
- Sử dụng thuốc lá
- Tuổi < 20
- Chăm sóc trước khi sinh chưa tốt
Tài liệu tham khảo: Nhiễm trùng đường tiết niệu khi mang thai – Tác giả: Raisa O Platte, MD, PhD